Một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Nó vạch ra một trong ba phương diện cơ bản của bất kì sự phát triển nào diễn ra trong tự nhiên, xã hội và tư duy. QLTNVĐTGCMĐL giữ vị trí trung tâm trong phép biện chứng duy vật, được Lênin coi là thực chất, là “hạt nhân” của phép biện chứng duy vật. Nội dung của quy luật này là bất kì sự vật, hiện tượng hay quá trình nào cũng đều chứa đựng trong bản thân nó các mâu thuẫn nội tại, các mặt, các yếu tố và các khuynh hướng đối lập nhau. Các mặt, các khuynh hướng đối lập nhau ấy luôn luôn đấu tranh loại trừ lẫn nhau, nhưng đồng thời lại là tiền đề tồn tại của nhau và không thể tồn tại nếu thiếu nhau, tức là chúng luôn luôn ở trong trạng thái vừa đấu tranh với nhau, lại vừa thống nhất với nhau. Sự thống nhất giữa các mặt đối lập tạo cho sự vật tính ổn định tương đối; còn sự đấu tranh giữa các mặt đối lập tạo ra xung lực nội tại cho sự phát triển, nó làm cho mâu thuẫn ngày càng trở nên gay gắt, và đến một giai đoạn nhất định thì được giải quyết bằng sự biến đổi căn bản hoặc bằng sự tiêu vong của cái cũ và xuất hiện cái mới. Trong mối quan hệ giữa hai mặt thống nhất và đấu tranh thì thống nhất chỉ là tạm thời, phản ánh sự cân bằng tương đối của các mặt đối lập, còn đấu tranh giữa các mặt đối lập là tuyệt đối. Hêghen F. (F. Hegel) là người đầu tiên nêu lên quy luật này, nhưng đứng trên quan điểm duy tâm. Ông coi QLTNVĐTGCMĐL là quy luật vận động và phát triển của ”ý niệm tuyệt đối”. Trái với triết học Hêghen, triết học Mac giải thích và nghiên cứu QLTNVĐTGCMĐL với tính cách là quy luật không chỉ của nhận thức, mà còn của cả thế giới khách quan. Chính tính phổ biến khách quan của quy luật này là cơ sở chức năng phương pháp luận của nó trong nhận thức.
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, quy định lẫn nhau, mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia làm tiền đề cho sự tồn tại của mình. Ví dụ: đen - trắng, sáng - tối, cao - thấp, nóng - lạnh.
Mối quan hệ, ý nghĩa và phương pháp luận . . .