Lê Thánh Tông (
chữ Hán: 黎聖宗;
20 tháng 7[1] năm
Nhâm Tuất 1442 –
30 tháng 1 năm
Đinh Tỵ 1497[1]), là vị
vua thứ năm của
nhà Hậu Lê trong
lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm
1460 đến 1497. Ông tên
thật là
Lê Tư Thành (黎思誠), còn có tên khác là
Lê Hạo (黎灝). Ông nổi tiếng là vị
minh quân, là người đã đưa Đại Việt lên tới thời hoàng kim của chế độ
phong kiến. Ông cũng được xem là một nhà văn hoá và một người coi trọng hiền tài.
Trong lúc trị vì, Lê Thánh Tông đã đề xuất nhiều
cải cách trong hệ thống
quân sự,
hành chính,
kinh tế,
giáo dục và
luật pháp. Ngoài ra, ông đã mở mang bờ cõi
Đại Việt bằng cách đánh chiếm
kinh đô của vương quốc
Chiêm Thành (1471), sát nhập một phần lãnh thổ Chiêm Thành vào Đại Việt; đồng thời có cuộc hành quân về phía Tây đất nước (1479).
Thụy hiệu do người kế vị ông,
Lê Hiến Tông truy tôn là
Sùng thiên Quảng vận Cao minh Quang chính Chí đức Đại công Thánh văn Thần vũ Đạt hiếu Thuần hoàng đế.
Thân thếLê Tư Thành, hiệu
Thiên Nam Động chủ là con thứ 4 của vua
Lê Thái Tông (1434-1442) và bà tiệp dư
Ngô Thị Ngọc Dao, con gái
Thái bảo Ngô Từ.
Lên ngôiKhi bà tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao có thai Lê Tư Thành, bà đã bị bà phi Nguyễn Thị Anh mưu hại.
Nguyễn Trãi và người thứ thiếp là
Nguyễn Thị Lộ đã cứu giúp Ngọc Dao và đưa đi lánh nạn. Lê Tư Thành được sinh ra ngày
20 tháng 7 năm Nhâm Tuất
1442, ở chùa Huy Văn (ngày nay thuộc
quận Đống Đa,
Hà Nội).
Lê Tư Thành vốn không phải là người sẽ kế vị, theo chính danh. Từ nhỏ, ông được giáo dục ở
Quốc Tử Giám, giống như người anh cùng cha khác mẹ là
Lê Nhân Tông (Lê Bang Cơ - con bà Nguyễn Thị Anh) đang làm vua
Đại Việt.
Năm
1459, người anh cả cùng cha khác mẹ của Nhân Tông là
Lê Nghi Dân tiến hành đảo chính và sát hại Lê Nhân Tông. Nghi Dân lên ngôi. Tư Thành không bị vua anh sát hại trong vụ này mà được cải phong làm Gia vương.
Chín tháng sau, một cuộc đảo chính thứ hai do
Nguyễn Xí và
Đinh Liệt cầm đầu đã giết chết Lê Nghi Dân. Nguyễn Xí và Định Liệt là 2 tướng thân cận của
Lê Thái Tổ vẫn còn sống sót sau các biến cố
chính trị kể từ khi vua Thái Tổ mất. Ban đầu, các đại thần định mời anh thứ hai của Tư Thành là Cung vương Lê Khắc Xương (em Nghi Dân, anh Bang Cơ) lên ngôi nhưng Khắc Xương từ chối không muốn nhận ngôi báu. Họ đề nghị Lê Tư Thành ra làm vua và ông đã chấp thuận. Về sau, vua Thánh Tông nghe lời gièm, Cung vương bị bức tử.
[2]Ngày
8 tháng 6, năm Canh Thìn
1460, Lê Tư Thành lên ngôi, tức là vua
Lê Thánh Tông, lấy niên hiệu là Quang Thuận. Năm đó, ông chỉ mới 18 tuổi. Ông chỉ định
Nguyễn Xí và
Đinh Liệt vào các chức quan cao nhất của triều đình, nắm giữ binh quyền.
[sửa] Cải cách Quân sựHoàng đế Lê Thánh Tông ra sắc chỉ đầu tiên là chỉnh đốn lại quân đội, đôn đốc và thực hiện các bước để tăng cường các khả năng chiến đấu của các
vệ quân năm đạo. Ông thường thân chinh đi tuần phòng ở các vùng biên ải xa xôi cùng với binh lính và là tấm gương tốt cho các quan phụ trách võ bị. Dấu tích trong một lần tuần tra tại khu vực cửa biển và vùng biển
Hạ Long là một bài thơ đề trên vách núi đá mà sau này dân
Đại Việt gọi tên là
núi Bài Thơ ở
thành phố Hạ Long ngày nay.
Việc canh phòng và khuyến khích các quan lại ở biên cương thường cảnh giác với các âm mưu xâm nhập và xử lý kịp thời các sự việc lãnh thổ với bên ngoài ở thời ông là rất chặt chẽ và cẩn thận nên triều đình
nhà Minh rất tôn trọng và có phần e ngại. Trong sử Việt còn nhắc đến việc Lê Thánh Tông ra sắc chỉ phải cảnh giác với lực lượng nội gián là các gia nô người Ngô (số người
nhà Minh tự nguyện xin được ở lại sau khi bị bắt làm tù binh trong cuộc chiến trước đây của Thái Tổ
Lê Lợi).
Theo các sử gia, thì vũ khí quân sự dưới thời Lê Thánh Tông đã có những tiến bộ vượt bậc, do tiếp thu các kỹ thuật chế tạo súng hỏa công cá nhân từ phương Tây và với số vũ khí thu được trước đây trong cuộc kháng chiến với
nhà Minh, kết hợp kỹ thuật vũ khí của Đại Việt thời
nhà Hồ đã tạo thành một bộ vũ khí đa dạng và hùng mạnh
[3]Lê Thánh Tông rất chú ý đến việc tích trữ lương thảo ở các vùng biên cương để sử dụng cho quân lương khi cần thiết. Một nghệ thuật làm
lương khô thời Lê Thánh Tông được sử sách ghi lại là một kỹ thuật đặc biệt của Đại Việt, đó là đồ (hấp) thóc chín và sấy khô. Loại
lương khô này có thể cất giữ vài năm không bị mất phẩm chất và rất tiện cho việc vận chuyển và sử dụng trong chiến tranh, đặc biệt là dùng cho quân đội viễn chinh.
Nhà vua cải tổ quân đội mạnh mẽ về mặt tổ chức, trước đó quân đội chia làm 5 đạo vệ quân, nay đổi làm 5 phủ đô đốc. Mỗi phủ có vệ, sở. Bên cạnh còn có 2 đạo nội, ngoại, gồm nhiều ti, vệ. Ngoài tổ chức quân thường trực, Lê Thánh Tông còn chú ý lực lượng quân dự bị ở các địa phương.
43 điều quân chính là luật quân đội Lê Thánh Tông ban hành cho thấy kỷ luật quân đội của ông rất nghiêm ngặt, có sức chiến đấu cao.
Hành chính Rồng đá
Điện Kính Thiên được xây thời Lê Thánh Tông
Lên nắm triều chính, Lê Thánh Tông nhanh chóng chấm dứt tình trạng chia rẽ của triều đình. Ông làm việc không biết mệt mỏi, làm gương cho các
quan lại. Lê Thánh Tông khẩn trương tổ chức củng cố và xây dựng nền
hành chính Đại Việt mạnh mẽ, táo bạo.
Nhà nước phong kiến tập quyền qua các đời từ
nhà Trần chỉ có 4 bộ: Hình, Lại, Binh, Hộ. Đời vua Lê Thái Tổ chỉ có 3 bộ: Lại, Lễ, Dân (tức Hộ Bộ). Lê Thánh Tông tổ chức thành sáu bộ:
- Lại Bộ: Trông coi việc tuyển bổ, thăng thưởng và thăng quan tước;
- Lễ Bộ: Trông coi việc đặt và tiến hành các nghi lễ, tiệc yến, học hành thi cử, đúc ấn tín, cắt giữ người coi giữ đình, chùa, miếu mạo;
- Hộ Bộ: Trông coi công việc ruộng đất, tài chính, hộ khẩu, tô thuế kho tàng, thóc tiền và lương, bổng của quan, binh;
- Binh Bộ: Trông coi việc binh chính, đặt quan trấn thủ nơi biên cảnh, tổ chức việc giữ gìn các nơi hiểm yếu và ứng phó các việc khẩn cấp;
- Hình Bộ: Trông coi việc thi hành luật, lệnh, hành pháp, xét lại các việc tù, đày, kiện cáo;
- Công bộ: Trông coi việc xây dựng, sửa chữa cầu đường, cung điện thành trì và quản đốc thợ thuyền.
Về cơ cấu chính quyền các cấp, ông đã tiến hành xóa bỏ hệ thống tổ chức hành chính cũ thời Lê Thái Tổ từ 5 đạo đổi thành 13 đạo (thừa tuyên).
Dưới thời Lê Thánh Tông, các quan chỉ được làm việc tối đa đến tuổi 65 và ông bãi bỏ luật cha truyền con nối cho các gia đình có công - công thần. Ông tôn trọng việc chọn quan phải là người có tài và đức.
[sửa] Kinh tế Đồ sứ thời Lê sơ với men lam trang trí rồng phượng
Hoàng đế Lê Thánh Tông còn đặc biệt quan tâm các chính sách nhằm phát triển
kinh tế như, sửa đổi luật thuế khóa, điền địa, khuyến khích
nông nghiệp, mở
đồn điền.
Những nỗ lực nhằm xây dựng phát triển Đại Việt của Lê Thánh Tông đã được kiểm chứng qua các bài chiếu, chỉ dụ do ông trực tiếp chấp bút và ban bố, như
Chiếu khuyến nông,
Chiếu lập đồn điền,
Chiếu định quan chế, v.v...
Các ngành nghề thủ công nghiệp và xây dựng dưới thời trị vì của Lê Thánh Tông cũng phát triển rực rỡ. Nghề in và làm giấy ở Đại Việt đạt một trình độ cao của
thế giới thời bấy giờ. Số lượng sách in thời này khá đồ sộ. Đặc biệt nhất thời kỳ này là thành tựu trong công nghệ chế tạo vũ khí và đồ sắt chiếm ưu thế. Đồ gốm, sứ
thời Lê sơ phát triển đạt được độ tinh xảo và hoa văn đẹp. Việc giao thương buôn bán đã chắp cánh cho đồ gốm thời này đi xa và hiện nay bộ sư tập về
đồ gốm Lê sơ cũng rất phong phú.
Thương mại và giao dịch buôn bán với các lân bang phát triển mạnh, cùng với bước chân viến chinh xa xôi của đội quân đế chế Đại Việt. Để tạo thuận tiên cho việc mua bán Lê Thánh Tông đã từng khuyến dụ các quan rằng:
“ | Trong dân gian hễ có dân là có chợ để lưu thông hàng hoá, mở đường giao dịch cho dân. Các xã chưa có chợ có thể lập thêm chợ mới. Những ngày họp chợ mới không được trùng hay trước ngày họp chợ cũ để tránh tình trạng tranh giành khách hàng của nhau. | ” |
—Lê Thánh Tông |
Có thể dưới thời Lê Thánh Tông, phiên chợ được mở mang nhiều.
Chính nhờ sự quan tâm đến việc phát triển thương nghiệp nên nền nông nghiệp đã phát triển mạnh mẽ. Các nghề thủ công như: Dệt lụa, ươm tơ, dệt vải, nghề mộc, nghề chạm, nghề đúc đồng cũng phát triển. Kinh đô
Thăng Long 36 phố phường sầm uất, nhộn nhịp tồn tại phát triển đến tận ngày nay. Phường Yên Thái làm giấy, Phường Nghi Tàm dệt vải lụa, Phường Hà Tân nung vôi, Phường Hàng Đào nhuộm điều, Phường Ngũ Xá đúc đồng, Phường gạch và gốm sứ Bát Tràng và nhiều phường khác nữa, v.v...
Giáo dục Lê Thánh Tông khởi xướng và cho lập
Bia tiến sỹ lần đầu tiên ở
Văn Miếu-Quốc Tử Giám vào năm 1484
Cùng với việc xây dựng thiết chế mới, Lê Thánh Tông đẩy mạnh phát triển giáo dục, đào tạo nhân tài. Ngoài Hàn lâm viện, Quốc sử viện, nhà Thái học, Quốc Tử Giám là những cơ quan văn hóa, giáo dục lớn, Lê Thánh Tông còn cho xây kho bí thư chứa sách, đặc biệt đã sáng lập
Hội Tao Đàn bao gồm những nhà văn hóa có tiếng đương thời mà Lê Thánh Tông là Tao Đàn chủ soái.
Dưới thời ông, việc thi cử và học tập thường xuyên và rất nhiều tiến sĩ và trạng nguyên đỗ đạt và thành danh. Ông khởi xướng lập
bia Tiến sĩ và tiến hành cho dựng để ghi danh, tôn vinh những người tài và đức của dân tộc
Đại Việt ở
Văn Miếu-Quốc Tử Giám và các thế hệ, các triều đình sau này tiếp tục bổ sung thêm các tấm bia vinh danh mới.
Đặc biệt ông rất tích cực trong cải tổ giáo dục, có những chính sách mới về thi cử và tránh gian lận trong thi cử. Nhiều lần ông đích thân chấm bài làm và khảo lại các bài thi có nghi ngờ.
[sửa]Dưới thời
Hậu Lê nói chung, và trong thời vua Lê Thánh Tông trị vì nói riêng,
Phật giáo bị đẩy lui xuống sinh hoạt ở các làng xã, trong khi đó
Nho giáo lại được coi trọng và lên ngôi, đặc biệt là khu vực triều đình và giới Nho học. Đó là đặc điểm chính của thời kỳ này. Mặt khác do trước đó chịu sự tận diệt của
nhà Minh nên nhiều chùa chiền, cung điện và các Phật tử phát triển rực rỡ ở các triều đại
nhà Lý,
nhà Trần đã bị xóa bỏ.
Nho giáo cũng đóng góp một cách đáng kể vào tín ngưỡng và cách xây dựng một nhà nước phong kiến tập quyền vững chắc và phát triển.
Cũng cần phải kể đến một số tôn giáo khác có điều kiện du nhập vào
Đại Việt thời kỳ sau khi Lê Thánh Tông sát nhập lãnh thổ
Chiêm Thành vào Đại Việt cũng góp phần làm phong phú thêm các loại hình tôn giáo đa dạng sau này của
Việt Nam. Với chính sách cai trị của Lê Thánh Tông, sự xung đột giữa các cư dân Chăm và Việt, như xung đột tôn giáo, rất ít xảy ra trầm trọng.
Luật PhápBài chi tiết: Luật Hồng ĐứcBộ Quốc triều hình luật của nhà Hậu Lê đã được hoàn thiện trong thời Lê Thánh Tông
[4], nên còn được gọi là Luật Hồng Đức. Với bộ luật này, Đại Việt đã hình thành một
nhà nước pháp quyền sơ khởi và thuộc loại sớm trên thế giới.
Lê Thánh Tông đã lấy những quan điểm của
Nho giáo làm hệ tư tưởng, chỉ đạo việc biên soạn, ban hành
luật pháp, nhằm thể chế hoá một nhà nước phong kiến Đại Việt, với truyền thống nhân nghĩa,
lấy dân làm gốc.
Bộ
luật Hồng Đức được lưu lại đến ngày nay bao gồm 13 chương với 700 điều, nội dung cơ bản của bộ luật như sau:
- Giữ cho đất nước luôn ở thế chủ động đối phó với quân xâm lược nước ngoài;
- Giữ nghiêm kỷ cương, phép nước;
- Chấn hưng nông nghiệp, coi nông nghiệp là nền tảng của sự ổn định kinh tế xã hội;
- Mở rộng giao lưu khuyến khích thủ công nghiệp, thương nghiệp lành mạnh;
- Bảo vệ quyền sở hữu tài sản của muôn dân, chống tham nhũng triệt để, chống sự lạm quyền và ức hiếp dân chúng.
- Khuyến khích nuôi dưỡng thuần phong mỹ tục;
- Bênh vực và bảo vệ quyền lợi phụ nữ[5];
- Chính sách hình sự nghiêm minh nhưng nhân đạo.
Lê Thánh Tông là người thực hiện nghiêm chỉnh
pháp luật đã ban hành. Một lần, ông đã thu lại quyền chỉ huy của tổng quân đô đốc Lê Thiệt vì con trai Lê Thiệt giữa ban ngày phóng ngựa trên đường phố và dung túng gia nô đánh người. Lê Thánh Tông thường bảo với các quan rằng:
“ | Pháp luật là phép tắc chung của Nhà nước, ta và các người phải cùng tuân theo. | ” |
—Lê Thánh Tông |
Hiền tài - nguyên khí quốc giaỞ
Văn Miếu-Quốc Tử Giám, Trường đại học đầu tiên của xã hội phong kiến Việt Nam, trên một tấm bia đá, có ghi một danh sĩ nổi tiếng thời nhà Lê, đó là
Thân Nhân Trung, người quê Việt Yên,
Bắc Giang. Ông có sớ dâng vua “Chiêu nạp hiền tài” và cho rằng “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Sự kiện này được khắc trên bia đá dựng thời Lê Thánh Tông. Điều này nói lên rằng, ông là người rất trọng dụng nhân tài và thực tế dưới thời trị vì của ông, những người tài thường được trọng dụng và đã cùng ông đoàn kết xây dựng một
Đại Việt trong yên vui, ngoài yên ổn, dân chúng rất mến mộ vị
Hoàng đế của mình.
Ông ngưỡng mộ và dễ tha thứ lỗi lầm cho các bậc tài đức, một đoạn ghi chép sau đây sẽ nói thêm về điều này. Một lần ông trách cứ cựu thần
Ngô Sĩ Liên,
Nghiêm Nhân Thọ:
Ta mới coi chính sự, sửa mới đức tính, ngươi bảo nước ta là hàng phiên bang của Trung Quốc thời xưa, thế là người theo đường chết, mang lòng không vua. Tuy nói vậy, Lê Thánh Tông vẫn trọng dụng Ngô Sỹ Liên và giao cho ông phụ trách soạn
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Bên cạnh dưới thời ông cũng có các học giả khác như, nhà toán học Trạng nguyên
Lương Thế Vinh, với tác phẩm
Toán pháp đại thành;
Phan Phu Tiên, với tác phẩm
Bản thảo thực vật toát yếu v.v...
Lê Thánh Tông bắt đầu cho phép tôn vinh việc học bằng các cuộc lễ xướng danh (lễ đọc tên người thi đậu), lễ vinh quy bái tổ (lễ đón rước người thi đậu về làng) và nhất là lệ khắc tên và lý lịch tiến sĩ vào bia đá
Văn Miếu (bắt đầu từ 1442). Vì thế khuyến kích mọi tầng lớp cư dân đua nhau học hành để tên tuổi được ghi vào bảng vàng, để gia môn được vinh dự và để làng quê được vinh hiển.
Như thế công việc giáo dục
Nho học đã trở thành nếp. Ngoài trường Quốc Tử Giám và các viện lớn ra còn có các trường học ở các đạo, phủ, thừa với rất đông học trò. Các kỳ thi được các sĩ tử khắp nơi hưởng ứng
[6].
Nhà văn hóaLê Thánh Tông trị vì Đại Việt 38 năm và dưới thời ông, đã để lại những giá trị
văn hóa xã hội như Hồng Đức thiên hạ bản đồ,
Hồng Đức hình luật, Thiên Nam dư hạ tập, Hồng Đức quốc âm thi tập v.v...
Năm
1464, ông rửa oan cho
Nguyễn Trãi, cho sưu tầm thơ văn Nguyễn Trãi để lưu lại hậu thế, và Lê Thánh Tông như đã tạc bia cho Nguyễn Trãi bằng câu thơ:
Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo Tạm dịch:
Tâm hồn Ức Trai sáng tựa sao Khuê Lê Thánh Tông là một nhà
thơ và phê bình văn học, vừa sáng tác văn thơ, vừa nghiên cứu, phê bình. Những trước tác của
Hội Tao đàn được ghi chép trong bộ sách
Thiên Nam dư hạp tập, và trong các sách
Quỳnh uyển cửu ca,
Minh lương cẩm tú,
Văn minh cổ xúy,
Chinh Tây kỷ hành viết bằng
chữ Hán và
Hồng Đức quốc âm thi tập,
Thập giới cô hồn quốc ngữ văn được viết bằng
chữ Nôm. Trong đó, không chỉ ghi chép thơ văn, mà còn ghi chép về lý luận phê bình
văn học, về
lịch sử,
kinh tế, quan chế,
địa lý v.v... Lê Thánh Tông là người dẫn đầu phong trào mới này, cả về nghệ thuật thể hiện, cả về tư tưởng
triết học.
Thánh Tông di thảo là dấu mốc quan trọng ghi nhận bước trưởng thành của
truyện ký Đại Việt viết bằng
chữ Hán, ra đời trước cả tập “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ (
thế kỷ 16).
Lê Thánh Tông khuyến khích các quan lại và tự mình tích cực sử dụng
chữ Nôm như một sự tự tôn và tự cường. Trong một bài thơ Nôm, Lê Thánh Tông tự trình bày mình:
Trống dời canh còn đọc sách Chiêng xế bóng chửa thôi chầu. Mở rộng Đại Việt Nam tiến Tiến trình Nam tiến của Đại Việt
Bài chi tiết: Chiến tranh Việt-Chiêm 1471Xem thêm: Nam tiến và Chiếu thư đánh ChiêmNăm
1452,
Ma Ha Quý Do được vua
Minh Đại Tông phong làm
quốc vương Chiêm Thành. Sau đó Quý Do bị
Bàn La Trà Duyệt, người ở
Thị Nại sát hại và cướp ngôi. Trà Duyệt chết, truyền ngôi cho em là
Trà Toàn (Pau Kubah). Trà Toàn được sử sách
Việt Nam mô tả là: “
hung hãn, hoang dâm, bạo ngược”.
Trà Toàn bỏ tiến cống nhà Lê, thường xâm lấn biên giới phía nam Đại Việt. Năm
1470, Trà Toàn sai sứ thần sang cầu viện nhà Minh, thân hành đem 10 vạn
quân thủy,
bộ cùng
voi ngựa đến đánh úp Hóa Châu. Viên tướng trấn giữ Hóa Châu Phạm Văn Hiển chống không nổi, phải đóng cửa thành chống giữ, cho người phi người phi ngựa đem văn thư cáo cấp về kinh đô
Thăng Long.
Tháng 10 năm 1470, vua Lê Thánh Tông sai Nguyễn Đình Mỹ và
Quách Đình Bảo đem việc Chiêm Thành đánh úp biên giới sang báo cáo với nhà Minh.
[7]Lê Thánh Tông quyết định chinh phạt, sát nhập lãnh thổ Chiêm Thành vào Đại Việt. Ông bá cáo với dân chúng trong nước biết một cách công khai và rõ ràng về lý do xuất quân, bằng
chiếu thư đánh Chiêm. Ông thân chinh cầm 200.000 quân tiến vào đất Chiêm Thành.
Tháng 3 năm
1471, kinh đô
Đồ Bàn của Chiêm Thành thất thủ. Theo
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, hơn 30.000 người Chiêm bị bắt, trong đó có vua Trà Toàn. 40.000 lính
Chiêm Thành đã tử trận.
Bấy giờ 1 tướng Chiêm là
Bô Trì Trì chạy về đất
Phan Lung, cử sứ sang cống và xin xưng thần với Đại Việt. Theo
Việt Nam Sử Lược, vua Thánh Tông có ý muốn làm cho Chiêm Thành yếu đi, mới chia đất Chiêm ra làm 3 nước, phong 3 vua: 1 nước gọi Chiêm Thành, 1 nước nữa là Hóa Anh và 1 nước nữa là Nam Phan.
[8]Sau khi Trà Toàn bị bắt, em là Trà Toại trốn vào núi, sai người sang cầu cứu
nhà Minh và xin phong vương. Được tin, Lê Thánh Tông sai Lê Niệm đem 3 vạn quân vào đánh, Trà Toại bị bắt giải về kinh. Về sau,
vua nhà Minh sai sứ sang bảo Lê Thánh Tông phải trả đất cho Chiêm Thành, nhưng ông nhất quyết không chịu.
[9]Sau chiến thắng, Lê Thánh Tông thực hiện chính sách mới, bình định và Việt hóa dân chúng người Chiêm Thành và sát nhập lãnh thổ miền bắc Chiêm Thành (từ
đèo Hải Vân tới bắc
Phú Yên ngày nay) vào Đại Việt.
Tháng 6 năm 1471, lãnh thổ miền bắc Chiêm Thành được lập thành
thừa tuyên Quảng Nam và vệ Thăng Hoa.
Tây tiếnSau khi Đại Việt đánh hạ Chiêm Thành, nhiều vương quốc láng giềng phía Tây bắt đầu cử sứ thần đến ra mắt và đưa cống phẩm. Nhà Minh cũng dè dặt phản đối việc làm của Lê Thánh Tông. Vào năm 1479, Đại Việt lại tấn công thêm
Bồn Man,
Muang Phuan,
Lan Xang (những vương quốc nằm phần lớn thuộc
Lào ngày nay),
Ayutthaya,
Chiang Mai (những vương quốc thuộc
Thái Lan ngày nay).
Năm
1480, quân đội của Lê Thánh Tông lấn chiếm
Nan, khu vực khi đó thuộc
Lannathai. Cuối cùng, quân Đại Việt tiến xa lên đến
sông Ayeyarwady của
vương quốc Ava (thuộc
Miến Điện ngày nay).
Năm
1485, Đại Việt đưa thêm
Melaka (thuộc
Malaysia ngày nay) vào danh sách các nước
chư hầu có nghĩa vụ cống phẩm cho Đại Việt, cùng
Chiêm Thành,
Chân Lạp,
Lan Xang,
Chiang Mai,
Ayutthaya và
Java (thuộc
Indonesia ngày nay).
Đánh Lão QuaNăm
1479, có tù trưởng xứ
Bồn Man là Cầm Công làm phản, xúi giục người Lão Qua cầm binh quấy nhiễu miền tây Đại Việt.
[10][11] Lê Thánh Tông liền sai Thái uý Lê Thọ Vực cùng các tướng Trịnh Công Lộ, Lê Đình Ngạn, Lê Lộng và Lê Nhân Hiếu chia quân làm 5 đạo đi từ
Nghệ An,
Thanh Hóa và
Hưng Hóa đánh đuổi quân Lão Qua tới
sông Kim Sa giáp với
Miến Điện.
[12] Quân Đại Việt toàn thắng.
[13] Đánh Bồn ManGây nên cuộc chiến Lão Qua là cũng vì họ Cầm ở Bồn Man muốn làm phản Đại Việt.
[14]Nguyên đất Bồn Man trước đã xin nội thuộc, đổi thành
châu Quy Hợp dưới quyền các tù trưởng họ Cầm. Sau đổi thành
phủ Trấn Ninh, và đặt quan phủ huyện để trị vì. Nay Cầm Công, với sự giúp đỡ của người Lão Qua, bèn đánh đuổi quân Đại Việt, rồi ra quân chống giữ với quan quân.
Vua Lê Thánh Tông bèn ngự giá thân chinh, nhưng khi tới
Phù Liệt, được tin quân Đại Việt thắng Lão Qua thì rút về và cử
Lê Niệm đem quân đi đánh. Kết quả là những người Bồn Man ra hàng, tù trưởng là Cầm Công cũng tử trận.
Sau đó, Thánh Tông phong người họ Cầm Công và Cầm Đông làm Tuyên Úy Đại Sứ và đặt lại quan cai trị như trước.
Bản đồ Đại Việt Bản đồ Hoàng thành
Thăng Long thời Hồng Đức (1490)
Lê Thánh Tông đã cho vẽ bản đồ chi tiết và đầy đủ về lãnh thổ
Đại Việt và bộ bản đồ các
vương quốc trong vùng (gọi là
Thiên hạ bản đồ).
Bộ bản đồ Đại Việt được hoàn thành năm 1490, gồm 13 thừa tuyên (sau đó đổi làm xứ) như sau:
- Nam Sách gồm (Hải Dương, Hải Phòng ngày nay), quản lĩnh 4 phủ, 18 huyện;
- Thiên Trường (Sơn Nam) gồm (Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên ngày nay), quản lĩnh 11 phủ, 42 huyện;
- Quốc Oai (Sơn Tây) gồm Hà Tây, Sơn Tây, Vĩnh Phúc ngày nay), quản lĩnh 6 phủ, 24 huyện;
- Bắc Giang (Kinh Bắc) gồm (Bắc Giang, Bắc Ninh ngày nay), quản lĩnh 4 phủ, 19 huyện;
- An Bang là (Quảng Ninh ngày nay), quản lĩnh 1 phủ, 3 huyện, 4 châu;
- Tuyên Quang gồm (Tuyên Quang, Hà Giang ngày nay), quản lĩnh 1 phủ, 2 huyện, 5 châu;
- Hưng Hóa gồm (Phú Thọ, Yên Bái ngày nay), quản lĩnh 3 phủ, 4 huyện, 17 châu;
- Lạng Sơn gồm (Cao Bằng, lạng Sơn ngày nay), quản lĩnh 1 phủ, 7 châu;
- Thái Nguyên (Ninh Sóc) gồm (Thái Nguyên, Bắc Cạn ngày nay), quản lĩnh 3 phủ, 8 huyện, 7 châu;
- Thanh Hóa gồm (Thanh Hóa, Ninh Bình ngày nay), quản lĩnh 4 phủ, 16 huyện, 4 châu;
- Nghệ An gồm (Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay), quản lĩnh 8 phủ, 18 huyện, 2 châu;
- Thuận Hóa gồm (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế ngày nay), quản lĩnh 2 phủ, 7 huyện, 4 châu;
- Quảng Nam gồm (Bình Định, Quảng Ngãi và Quảng Nam ngày nay)
Đạo thừa tuyên Quảng Nam được bổ sung sau cùng sau khi Đại Việt chiếm được miền bắc của
Chiêm Thành (1471)
Lại đổi Trung đô phủ làm Phụng Thiên, quản lĩnh 2 huyện.
Quan hệ với Trung QuốcBài chi tiết: Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Hậu LêĐại Việt bấy giờ có lệ xưng thần với
nhà Minh, nhưng vua Lê Thánh Tông vẫn hết lòng phòng bị mặt bắc. Thỉnh thoảng có những thổ dân sang quấy nhiễu, thì lập tức vua cho quan quân lên dẹp yên và cho sứ sang
Trung Quốc để phân giải mọi sự cho minh bạch. Có lần được tin có người nhà Minh đem quân qua địa giới, Thánh Tông liền cho người do thám thực hư. Ông thường bảo với triều thần:
“ | Ta phải giữ gìn cho cẩn thận, đừng dể ai lấy mất 1 phân núi, 1 tấc sông do vua Thái Tổ để lại. | ” |
—Lê Thánh Tông |
Nhà vua có lòng vì nước như thế, nên nhà Minh dẫu có muốn dòm ngó cũng chẳng dám làm gì. Vả lại quân Đại Việt bấy giờ đi đánh
Lào,
Chiêm nên thanh thế bao nhiêu, nhà Minh cũng phải lấy lễ nghĩa mà đãi Đại Việt, quan hệ giữa hai nước vẫn được hoà bình.
[15].
Lê Thánh Tông và Nguyễn TrãiXem thêm: Vụ án Lệ Chi Viên và Nguyễn TrãiDanh nhân văn hóa
Nguyễn Trãi và gia đình ông đã bị
tru di tam tộc vào năm
1442 trong
vụ án Lệ Chi Viên.
Sau vụ án này, vua
Lê Nhân Tông (1443-1459) đã khẳng định lại công lao sự nghiệp của Nguyễn Trãi:
Nguyễn Trãi là người trung thành giúp đức Thái Tổ dẹp yên giặc loạn, giúp đức Thái Tông sửa sang thái bình. Văn chương và đức nghiệp của Nguyễn Trãi, các danh tướng của bản triều không ai sánh bằng[16]. Nhưng Lê Nhân Tông vẫn chưa minh oan cho Nguyễn Trãi.
Năm
1464, Lê Thánh Tông đã chính thức minh oan cho Nguyễn Trãi. Ông ca ngợi Nguyễn Trãi là
Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo, truy tặng tước Tán Trù Bá, ban cho con là Anh Vũ chức huyện quan. Năm
1467, Lê Thánh Tông ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn Nguyễn Trãi. Việc làm này có thể đã góp phần bảo tồn một phần quan trọng các di sản văn hóa mà Nguyễn Trãi đã để lại.
Qua đờiTheo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, năm
1497 vua Thánh Tông lâm bệnh
phong thũng. Trường Lạc hoàng hậu Nguyễn Thị Hằng (con gái của
công thần Nguyễn Đức Trung) vốn vua xa lánh lâu ngày, lấy cớ vào thăm bệnh vua rồi ngầm bôi thuốc vào tay, xoa lên những chỗ loét của ông.
[17] Do đó, bệnh vua càng nặng thêm
[17] và
qua đời ở điện Bảo Quang, ở ngôi 38 năm, hưởng thọ 56 tuổi và được an táng ở Chiêu Lăng. Tương truyền, ngày hôm ấy,
ấn thần và
gươm thần đều biến mất.
[17]Thánh Tông mất, Thái tử Lê Tranh lên thay, tức là vua
Lê Hiến Tông.
Nhận địnhLê Thánh Tông được xem là minh quân trong
lịch sử Việt Nam. Sau đây là một số lời nhận xét về ông:
“ | “Thánh tông là một ông vua thông minh, thờ mẹ rất có hiếu, ở với bề tôi đãi lấy lòng thành. Ngài trị vì được 38 năm, sửa sang được nhiều việc chính trị, mở mang sự học hành, chỉnh đốn các việc vũ bị, đánh dẹp nước Chiêm, nước Lào, mở thêm bờ cõi, khiến cho nước Nam...bấy giờ đuợc văn minh thêm ra và lại lừng lẫy một phương, kể từ xưa đến nay chưa bao giờ cường thịnh như vậy.” | ” |
—Trần Trọng Kim, trong cuốn Việt Nam sử lược[18] |
“ | Vua sáng lập chế độ văn vật khả quan, mở mang đất đai, cõi bờ khá rộng, thực là bậc vua anh hùng tài lược, dẫu Vũ Đế nhà Hán, Thái Tông nhà Đường cũng không thể hơn được. Nhưng công trình thổ mộc vượt quá quy mô xưa, tình nghĩa anh em thiếu hẳn lòng nhân ái. Đó là chỗ kém vậy. | ” |
—Đại Việt Sử ký Toàn thư[2] |
“ | Vua tư triều cao siêu, anh minh quyết đoán, có hùng tài, đại lược, võ giỏi văn hay mà cái học của thánh hiền lại đặc biệt siêng năng, tay không lúc nào rời quyển sách. Các tập kinh, sử, các lịch, toán, những việc thánh thần, không có gì không bao quát tinh thông. Văn thơ thì vượt trên cả những văn mẫu của các văn thần. Cùng với bọn Nguyễn Trực, Vũ Vĩnh Mô, Thân Nhân Trung, Quách Đình Bảo, Đỗ Nhuận, Đào Cừ, Đàm Văn Lễ biên soạn bộ Thiên Nam dư hạ, tự đặt hiệu là “Thiên Nam động chủ”, “Đạo Am chủ nhân”. Lại sùng nho thuật, nâng đỡ nhân tài. Khoa thi chọn kẻ sĩ không phải chỉ có khóa, lệ định 3 năm một lần thi lớn là bắt đầu từ xưa. Người hiền tài được chọn nhiều hơn cả đời vua. Văn võ đều dùng, tùy theo sở trường của từng người. Vì thế, có thể sửa dựng chính sự, chế tác lễ nhạc, hiệu lệnh văn chương rõ ràng, có thể cho người sau noi theo. | ” |
—Vũ Quỳnh[sup][url=http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_Th%C3%A1nh_T%C3%B4ng#c |
|