Kiểu lợp ngói xi măng
1. Lắp đặt cây mè sao cho khoảng cách giữa các cây mè đều nhau và nằm trong khoảng 320 - 340 mm. Riêng cây mè dưới cùng phải cách điềm mái 345mm và cặp 2 cây mè trên nóc cách nhau chừng 40 - 60mm.
2. Đặt lần lượt từng viên ngói vào khung theo chiều hướng lên từ hàng thấp nhất.
3. Lắp vít vào ngói để giữ viên ngói ổn định tại mỗi 2 hàng.
4. Không trám vữa vào khoảng trống rìa cũng như không tạo những lỗ nhỏ với đường kính 6mm tại rãnh thóat nước trên viên ngói dọc theo chiều dài rìa.
5. Cắt ngói dọc hông sao cho rãnh của chúng càng nhỏ càng tốt. Không trét vữa phủ lên khỏang trống hông mái và không cần tạo lỗ dọc theo hông mái.
6. Phải dùng miếng xốp hay giẻ khô để làm sạch vết vữa xi-măng trên ngói chính và ngói nóc khi vữa có màu trắng (vữa khô).
7. Sơn phủ vữa bằng sơn lên vữa dọc theo nóc và hông mái, đồng thời không là sơn rớt lên ngói chính và ngói nóc.
8. Khoảng cách ngói tại khe mái khoảng chừng 30-50mm và dùng sơn để sơn tại gờ viên ngói được cắt.
9. Không dùng vữa gắn giữa 2 viên ngói nóc, tại giữa ngói nóc với ngói hông mái và xung quanh khe mái bằng mọi cách.
Kiểu lợp thông thườngTrên một mái đã được lắp đặt gỗ hoàn chỉnh, người thợ tính chỉ cần đặt những viên ngói sát nhau hoặc chồng lên nhau theo các gờ chỉ đã được định hình trên viên ngói. Tại các vị trí như nóc, bờ quyết hoặc các chỗ giao của mái, người ta có thể dùng ngói úp nóc, ngói chạc 3, chạc 4 để úp vào và dán lại bằng hồ vữa xi măng.
Một số vùng hay có
gió bão, người ta phải xâu dây thép vào những lỗ đã được đục sẵn trên viên ngói và cố định chúng bằng cách buộc vào phần gỗ hoặc sắt bên dưới.
Kiểu lợp ngói lưu ly Lợp
ngói lưu ly.
Một số thuật ngữ
- Nê ngõa tượng cục: xưởng chuyên sản xuất gạch ngói.
- Nê ngõa tượng: thợ lợp ngói.
- Ngõa Tượng (nghĩa đen là thợ ngói): là một cựu tích được lưu lại qua địa danh Ngõa Tượng, là tên gọi một xóm nhỏ nằm giữa hai làng La Khê và Địa Linh, thuộc xã Hương Vinh, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên-Huế, nơi có nhiều người làm nghề này.
- Ngày nay, người ta dùng thuật ngữ nghệ nhân hoặc thợ chính, thợ kép... để chỉ những người thợ có khả năng lợp ngói lưu ly.
Ví dụ:
Trương Văn Ấn được phong là nghệ nhân nề ngoã, gia đình ông đã có 7 đời làm nghề này.
Gầy nóc (hay còn gọi là gầy mái)Trên một mái đã được lắp đặt gỗ hoàn chỉnh, người thợ tính toán để đặt những viên ngói đầu tiên tại nóc và khoá chặt chúng bằng
hồ vữa truyền thống hoặc vữa xi măng. Thực chất chính là thao tác sắp xếp, định vị và liên kết các viên ngói tại vị trí góc trên của mái (bờ nóc, bờ quyết)cho công đoạn lợp mái sau này. Trong quá trình gầy mái, ngoài việc định vị, sắp xếp các ngói theo quy cách truyền thống, người thợ còn phải căn chỉnh cho các viên ngói được nằm trên cùng một mặt phẳng, tạo bằng vữa lợp và ngói liệt không men. Dùng hồ vữa truyền thống hoặc vữa xi măng để hoàn thiện bờ nóc, bờ quyết.
Trên đây là những công đoạn khó khăn nhất, đòi hỏi kỹ thuật cao và chiếm nhiều thời gian nhất, bởi những viên đầu tiên sẽ làm căn cứ hay làm chuẩn để lợp ngói phần mái còn lại. Dựa theo hàng ngói đã được định vị ở bờ nóc, bờ quyết, các viên ngói âm dương tiếp tục được xếp dần từ trên xuống dưới. Viên cuối cùng được khóa lại, và cũng để trang trí bằng các viên ngói câu đầu và trích thuỷ.
Lắp dựng con giống Rồng trên đỉnh mái chùa Trăm gian -
Hải DươngCác con giống như
rồng,
phụng,
tứ linh... hoặc các hình khối trang trí khác có thông thường được chế tạo từ trước được vận chuyển và lắp dựng tại những vị trí cần thiết như đỉnh nóc, đầu hồi...
Lợp ngói liệt chiếuLiệt chiếu là loại ngói liệt được phủ men toàn bộ một mặt ngói; khi lợp, phần men hướng xuống dưới. Ngói liệt chiếu có tác dụng làm thành một mặt phẳng để dán các loại ngói khác lên trên; mặt men hướng xuống dưới để làm đẹp cho mái khi nhìn từ dưới lên.
Theo chiều dốc mái từ trên xuống, cứ cách khoảng vài lối ngói liệt chiếu, người ta phải đóng thêm những thanh gỗ nhỏ, dài (gọi là lách chặn) để ngăn chặn sự trượt của mái ngói, nếu mái càng dốc, số lượng lách chặn phải tăng.
Kích thước cơ bản là: 180 mm × 140
mm.
Lợp ngói liệt độn hay liệt thíLà loại ngói liệt không men, được dán trên lớp liệt chiếu, có thể từ 1 đến 3 lớp. Tác dụng của nó là khoá chặt lớp liệt chiếu, tạo mặt phẳng (hơn) để dán các loại ngói khác lên trên.
Lợp mái ngói chính Ngói mới được trùng tu tại Thành
HuếMái ngói âm dương (陰陽瓦)
Ngói âm và ngói dương có hình như là một phần của hình chóp cụt bị cắt bởi một mặt phẳng song song trục tâm, nó có một đầu lớn và một đầu bé. Ngói dương là ngói được
tráng men một phần ở mặt lồi, còn ngói âm là ngói được
tráng men một phần ở mặt lõm.
Kích thước cơ bản (đầu lớn nhất - đầu bé nhất - chiều dài viên ngói) là: 240-220-240 hoặc 210-190-210
mm. Chưa thấy có tài liệu nào nói về bán kính cong của loại ngói này.
Khi lợp ngói, các viên hàng trên lợp trùm lên 2/3 viên ở ngay hàng sát dưới. Ngói âm lợp dưới, ngói dương lợp úp lên trên khe tạo bởi hai viên ngói âm trên cùng hàng ngang để làm kín nước. Trọng lượng của 1 m² ngói âm dương từ 160–180
kg trong trường hợp ngói hoàn toàn khô.
Liên kết giữa ngói âm và ngói dương là lớp
vôi vữa truyền thống hoặc vữa xi măng thông thường. Nếu chất lượng ngói và kỹ thuật lợp không tốt, đặc biệt vào
mùa mưa ở Huế,
trọng lượng mái thường tăng do độ hút nước của ngói, điều này có thể làm ảnh hưởng đến hệ khung kết cấu công trình. Kinh nghiệm của thợ lợp để mái khỏi bị dột vào mùa mưa là làm sao tạo một độ rỗng nhất định phía dưới viên ngói dương. Ở hàng ngói cuối cùng (tính từ trên xuống), người ta sử dụng ngói câu đầu (鉤頭瓦) hoặc trích thuỷ (滴水瓦) để tăng độ thẩm mỹ của mái ngói.
Trong xây dựng, đối với các lớp ngói hoàn thiện trên cùng, cần có chú trọng đặc biệt về
đường phân thuỷ và số lượng hàng ngói đếm theo chiều dọc công trình. Số lượng trung bình số viên ngói (cả âm và dương) cho 1 m² mái lợp là 84 viên khi lợp theo đúng
công nghệ truyền thống.
Ngói âm dương thường được sử dụng trong các công trình di tích ở
Huế như
Thế Tổ miếu,
Lăng Thiệu Trị, v.v.
Mái ngói âm ống Gọi là mái ngói âm ống vì dùng hai loại ngói: ngói âm (tương tự trên) và ngói ống. Ngói ống là loại ngói có hình ống hai bậc hoặc hình chóp cụt bị cắt bởi mặt phẳng trùng với tâm ống, và được tráng men một phần của mặt lồi.
Kích thước cơ bản (chiều dài toàn bộ - chiều dài hữu ích - đường kính lớn nhất) là: 300-240-170 hoặc 230-180-120
mm.
Về cách lợp, có thể nói tương tự kiểu lợp ngói âm dương. Tuy nhiên vì kích thước viên ngói ống có khác so với ngói dương nên số lượng ngói khác nhau.
Ở hàng ngói cuối cùng (tính từ trên xuống), người ta sử dụng ngói câu đầu hoặc trích thuỷ để tăng độ thẩm mỹ của mái ngói.
Mái ngói liệt men Chi tiết ngói lợp tại
Thiên Đàn (天壇), Bắc Kinh, Trung Quốc
Gọi là mái ngói liệt men là do dùng lớp ngói liệt tráng men. Khác với ngói liệt chiếu, viên ngói liệt này chỉ được tráng men một phần trên bề mặt.
Kích thước cơ bản (chiều dài - chiều dài hữu ích - chiều rộng) là: 180-10-180
mm.
Khi lợp, các viên ngói được đan cài nhau theo kiểu lòn ba hoặc lòn tư (lóng ba, lóng tư).
Một số kiểu đặc biệt khácVới một mái đã được đúc bêtông, người ta có thể tạo hình mái ngói bằng hồ vữa hoặc dán lên bất cứ loại ngói nào người ta yêu thích và có thể gọi đó là
mái ngói giả hay
mái giả ngói hay
giả mái ngói...
Trong trường hợp này, ngói có chức năng trang trí là chủ yếu. Chức năng bao che chống mưa nắng chỉ còn là yếu tố phụ
Tham khảo
- Gạch ngói và gốm tráng men dùng trong xây dựng và trang trí cung điện thời Nguyễn (1802-1945)- Trần Đức Anh Sơn, đăng trong "Thời gian đã chứng minh", Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế xuất bản năm 2001.